Lư Bát Bảo (Lớn)
Loại: | Đế ngang |
Màu sắc: | Đồng đỏ |
Chất liệu: | Hợp kim |
Kích thước: | Cao 10.5 cm x Rộng 5.5 cm x Dài 32 cm |
Sử dụng cho: | Nhang không tăm, nhang nụ |
- Thông tin sản phẩm
Mô tả
HOMYL RETRO TIBETAN ALLOY BUDDHISM INCENSE BURNER FOR MEDITATION YOGA
—————————————————————————————————————————————————————————————-
Trong Phật Giáo Tây Tạng, Bát Cát Tường Bảo được gọi là “Trát Tây Đạt Kiệt” … Cũng được gọi là Cát tường bát bảo, Bát cát tường huy, Tạng bát bảo với ý nghĩa luân chuyển thuận chiều kim đồng hồ trên các Mạn Đà La.
Tám biểu tượng này tượng trưng cho may mắn, hạnh phúc, viên mãn theo suy nghĩ truyền thống của người dân Tây Tạng cũng như Mật tông. Xếp theo thứ tự, đó là: Lọng báu, đôi cá vàng, bảo bình, hoa sen, tù và bằng ốc, vật kết cát tường, thắng lợi tràng, kim luân, thường dùng bày trước ban tượng Phật. Khi các biểu tượng cát tường này xuất hiện tại bất kỳ nơi nào thì nơi đó trở thành sự gia trì hoàn hảo. Tám tướng cát tường khi được vẽ kết hợp lại với nhau thành một tổng thể được gọi là trí tuệ Bản Lai, chính là hóa thân Phật dưới hình thức biểu tượng cát tường để ban gia trì lợi ích chúng sinh.
1. Hoa cái bảo tán (Lọng báu):
Theo tiếng Phạn, ô báu gọi là “Chatra” hay “Hoa cái bảo tán”, thực chất là vật che đầu có từ thời Ấn Độ cổ đại được giới quý tộc, hoàng gia dùng che đầu mỗi khi đi ra ngoài. Về sau, “Bảo tán” trở thành một thứ đồ nghi trượng, tượng trưng cho quyền lực và sự giàu sang.
Sau khi đắc đạo, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bắt đầu ngồi thuyết giảng pháp cho các đệ tử, đức Phạn Thiên khi ấy có cầm một chiếc lọng báu màu trắng cán vàng, được gắn châu báu với 2 dải lọng tua hai bên ra che nắng cho Đức Phật rồi sau đó dâng cho Phật dùng.
Từ một công cụ bình thường, lọng báu đã trở thành một đại pháp khí của Phật giáo Mật tông, tượng trưng cho sự che lấp đi ma chướng, giữ gìn và bảo hộ Phật pháp, có tác dụng tiêu trừ ngũ độc cho chúng sinh. Tại Tây Tạng, “Hoa cái bảo tán” là vật chuyên dùng cho các hoạt Phật, thượng sư và Đại Lạt Ma.
Về cấu tạo, Lọng báu còn có trang trí thêm lông khổng tước, sợi châu báu vàng bạc…Hình tròn của lọng tượng trưng cho trí tuệ, gia hộ cho chúng sinh thoát khỏi những cảnh khó khăn. Chiếc núm trên đỉnh tượng trưng cho vinh dự, sự tôn kính và sự phổ chiếu khắp bốn phương của Phật pháp.
2. Song ngư (Cặp cá vàng):
Cá vàng (tiếng Phạn, Suvarnamatsya) là một loại cá sông có râu, còn được gọi là cá cao nguyên hay cá hoàng kim. Con cá này có vây ngọc dài, mềm mại, mắt tròn phát sáng lấp lánh, roi rõ mọi thứ vô minh, là biểu tượng của trí tuệ.
Theo Phật giáo Tạng truyền, vào thời nguyên sơ của trái đất, biển lớn bao trùm và cá trong biển lớn là khởi nguồn của các loài động vật trong thế gian. Còn màu vàng của cá theo quan niệm của dân tộc Tạng, là màu của hưng vượng, phát triển.
Một cặp cá vàng (một đực, một cái) còn tượng trưng cho sinh mệnh, sự sinh sản và tránh thoát bể khổ cõi luân hồi, tượng trưng cho sự thống nhất cao độ, sự hài hòa tuyệt đối giữa âm và dương, cương và nhu, trí tuệ và phương tiện.
Trong kinh Phật có câu chuyện Liên Hoa Vương xả thân mình thành cá để cứu người, cho nên, cá còn là vật tượng trưng cho cát tường, may mắn, biểu thị cho sự từ bi của Đức Phật.
Con cá bơi trong nước, thoải mái không có chướng ngại nên Phật giáo còn dùng nó để biểu thị thế giới siêu việt, người tu hành nhờ đó mà đạt được giải thoát. Đặc biệt, mắt cá có thể nhìn thấu mọi vật trong bùn nước nên cá vàng còn tượng trưng cho tuệ nhãn.
3. Bảo Bình (Bình báu):
Bảo bình, hay lọ, bình sạch, là đồ dùng đựng ngũ bảo gồm năm thứ châu báu, ngũ hương, ngũ dược, ngũ cốc…Nếu nhìn thấy đồ cúng dường là năm bình hương thơm đựng đầy tràn thì điều này có nghĩa là đại diện cho ngũ trí của Phật.
Miệng bảo bình thường được trang trí hoa báu, thân bình cũng được trang trí bằng nhiều họa tiết, ngoài ra còn gắn thêm châu báu ở thân, trên đỉnh hay dưới đáy với nhiều hình vẽ hoa sen.
Bảo bình cũng còn là một pháp khí được dùng để quán đỉnh khi tu pháp Mật tông với việc người thụ giới được vẩy rượu thơm lấy từ trong bình, khiến cho được phúc báo, trừ bỏ bệnh tật, tiêu trừ ác nghiệp, khai hiển trí tuệ từ đó giải thoát khỏi mọi ma chướng.
Là một trong tám báu vật may mắn của dân tộc Tây Tạng, trong bảo bình thường có nước cam lộ, đá quý, sữa chua, được cắm thêm cành như ý hoặc lông đuôi khổng tước tượng trưng cho tài vật tăng thêm, vạn sự như ý, phúc trí viên mãn…
4. Liên Hoa (Hoa sen):
Hoa sen mọc từ bùn nhơ nhưng lại thanh sạch với hương thơm tinh khiết, tượng trưng cho việc có thể giải thoát mọi phiền não và tội ác, thăng hoa đến cảnh giới thanh khiết, sáng rõ.
Theo truyền thuyết, khi Phật ra đời thì hoa sen dần dần nở, trở thành một vật có địa vị đặc biệt quan trọng trong Phật giáo.
Sự cao khiết của hoa sen biểu tượng cho Phật pháp không thể bị ô nhiễm; khí chất thơm tho, đẹp đẽ, cao nhã biểu thị Phật pháp trừ bỏ tất cả mọi điều bất thiện và vọng ngữ, tính tình nhu hòa, chuyên tâm tu pháp.
Phật giáo Tạng truyền còn dùng cánh hoa sen trắng để so với đầu lưỡi của Phật tổ khi ngài thuyết pháp. Hoa sen tượng trưng cho Phật hay Bồ Tát không chịu sự xâm nhiễm của tâm, ý hay ma chướng bên ngoài, giữ gìn Phật pháp tận thiện tận mỹ, thuần khiết vô cùng.
Thân, lá và hình trạng của hoa sen tượng trưng cho các mạch trên cơ thể con người, đại diện cho Phật pháp khai mở trí tuệ, tu hành đến cảnh giới tối cao. Đặc biệt, hình tượng Phật, Bồ Tát và các vị thiên thần đều tọa trong hoa sen chính là tượng trưng cho sự giác ngộ viên mãn, tu thành chính quả.
5. Bạch Hải Loa (Ốc Tù Và):
Tương truyền, khi Đức Phật bắt đầu thuyết pháp trong vườn Lộc Dã, Đế Thích Thiên có dâng lên Phật một con ốc biển, từ đó, ốc biển trắng tượng trưng cho trí tuệ và sự viên mãn của Phật tính.
Ốc biển dùng làm nhạc khí gọi là pháp loa, gồm 2 loại là có trang sức và không có trang sức. Pháp loa không có trang sức thường được cúng dường trên chính điện, pháp loa có trang sức thì dùng trong các pháp sự, đặc biệt có những pháp loa nạm vàng khảm ngọc, viền cánh, khắc hình ảnh hoa văn rồng rất tinh xảo.
6. Vạn tự kết:
Vạn tự kết, hay gọi là vật kết cát tường, thường dùng những sợi chỉ kết lại thành hình dạng gần như chữ “Vạn” tượng trưng cho Phật môn, là một tiêu chí thể hiện sự may mắn, cát tường có nguồn gốc từ Ấn Độ, cũng là tượng trưng cho Phật giáo với nghĩa “vạn tướng”.
Vạn tự kết thường được trang trí ở trước tượng Phật, biểu thị quyền uy rất lớn. Vật này cũng thường được đeo cạnh eo của người du mục Tây Tạng, tượng trưng cho tất cả người trong nhân gian, vạn chúng nhân tu theo nghiệp thiện đều chuyên nhất tâm, hữu hảo đoàn kết, đoàn kết với nhau thành một khối…
Vạn tự kết cũng còn tượng trưng cho trí tuệ viên mãn của Phật, đại diện cho năm trí tuệ của Phật là “pháp giới thể tính trí”, “diệu quan sát trí”, “đại viên kính trí”,”bình đẳng tính trí”, “thành sở tác trí” thể hiện ở khắp nơi, trí tuệ và phương tiện kết hợp chặt chẽ, chiến thắng tà ác và đau khổ.
7. Thắng lợi tràng (Tràng phan chiến thắng):
“Tràng” vốn có nguồn gốc từ một loại cờ trong quân đội của Ấn Độ cổ mà khi chiến thắng sẽ được giương lên để muôn người hô lớn. Sau này, Phật giáo dùng “tràng” tượng trưng cho phiền não được giải thoát, thắng lợi hoàn toàn. Khi Phật giáo hưng thịnh, “tràng” được chọn dùng biểu thị cho Phật pháp vững chắc, chiến thắng được tà môn ngoại đạo, phát triển không ngừng.
Dạng thức của “thắng lợi tràng” có 2 loại: Một loại bằng lụa, hình ống dài với 9 tầng lụa bạch kết nối, chủ yếu dùng đặt trong Phật đường. Một loại khác lại được làm bằng đồng, trên khắc câu chú, đầu sư tử, chuỗi ngọc, vòng lửa, được mạ vàng để phát sáng rực rỡ dưới ánh mặt trời. “Thắng lợi tràng” bằng đồng thường đặt trên đỉnh phòng, 4 góc hoặc 2 bên trước cửa Phật đường…
8. Kim Pháp luân (Bánh xe luân chuyển):
Bánh xe có tám nan tượng trưng cho Bát chính đạo và sự diệu dụng của trí tuệ, giúp chấm dứt vô minh và đoạn tận khổ đau; trục bánh xe nêu biểu cho sự rèn luyện trong khuôn khổ giới luật, hỗ trợ cho tâm được ổn định; vành bánh xe biểu thị cho sự kiểm soát và nhất tâm trong khi hành thiền, giống như vòng bánh xe và nan bánh xe được giữ bởi trục của nó. Bánh xe Pháp luân tượng trưng cho giáo pháp – chân lý của vũ trụ luôn được trao truyền và trải rộng khắp muôn phương vì lợi ích tất cả chúng sinh.
Trong Phật giáo Kim Cương thừa, hình ảnh tám tướng cát tường được nhìn thấy ở nhiều nơi: trên tường và trần các ngôi tự viện, trên ngai, tòa ngồi, pháp khí, đồ thờ cúng, tranh cuộn, nhiều đồ vật tôn giáo và cả những vật dụng sinh hoạt hàng ngày. Tập hợp Tám tướng cát tường tạo nên sự gia trì cát tường hoàn hảo. Tám tướng cát tường khi được vẽ kết hợp lại với nhau thành một tổng thể được gọi là trí tuệ Bản Lai, chính là hóa thân Phật dưới hình thức biểu tượng cát tường để ban gia trì lợi ích chúng sinh.